Thứ Năm, 30 tháng 10, 2014

Mỹ "hốt" bạc tỷ tiền bán vũ khí từ cuộc chiến với ISIS

Hôm qua, chính phủ Mỹ trình lên quốc hội một kế hoạch bán thêm 600 triệu USD tiền đạn pháo xe tăng cho quân đội Iraq. Cộng thêm với hợp đồng cung cấp vũ khí trị giá 650 triệu USD hồi tháng Bảy, thì chỉ trong vòng nửa năm nước này có thể sẽ bán được 1,2 tỷ USD vũ khí cho cuộc khủng hoảng tại Iraq.

    1 / 9

    Chính phủ Mỹ vừa trình Quốc hội phê chuẩn kế hoạch bán 600 triệu USD tiền đạn pháo xe tăng cho Iraq. Đạn được bán sẽ là đạn dành cho xe tăng M1A1 Abrams, cũng do Mỹ sản xuất.

    Thứ Ba, 28 tháng 10, 2014

    Vì sao tổng thống Mỹ gọi một số tướng tá Việt Nam Cộng Hòa là “bọn ác ôn côn đồ”

    Vì sao tổng thống Mỹ gọi

    một số tướng tá Việt Nam

    Cộng Hòa là “bọn ác ôn

    côn đồ”

    > Chuyên mục ĐỪNG SỐC

    > Chuyên mục TÀI LIỆU HIẾM

    Trong cuốn băng dài 30 tiếng đồng hồ do thư viện Johson Library ở Austin, Texas, công bố ngày 28 tháng 2, 2003, Tổng Thống Johnson đã gọi các tướng miền Nam Việt Nam được Hoa Kỳ thuê đảo chánh lật đổ và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm là “một bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” ("a goddam bunch of thugs"). Họ là ai và đã làm gì mà bị Tổng Thống Johnson miệt thị như vậy?

    Nhận diện “bọn ác ôn côn đồ”

    Tướng Trần Văn Đôn cho biết các sĩ quan cao cấp của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) sau đây đã nằm trong nhóm đứng ra tổ chức đảo chánh: Trung Tướng Dương Văn Minh, Trung Tướng Trần Văn Đôn, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân, Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, Thiếu Tướng Nguyễn Khánh, Thiếu Tướng Lê Văn Kim, Thiếu Tướng Trần Văn Minh, Thiếu Tướng Phạm Xuân Chiểu, Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm, Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu, Đại Tá Đỗ Mậu, Đại Tá Dương Ngọc Lắm, Đại Tá Nguyễn Văn Quan, Đại Tá Nguyễn Hữu Có, Đại Tá Trần Ngọc Huyến, Đại Tá Nguyễn Khương và Đại Tá Đỗ Cao Trí.

    Trong một cuộc phỏng vấn, Tướng Khánh có nói với chúng tôi rằng ông là người được CIA tiếp xúc trước tiên khi muốn làm đảo chánh. Nhưng theo tài liệu, CIA đã cho 2 điệp viên khác nhau đến gặp Tướng Khiêm và Tướng Khánh cùng một lúc. Điệp viên Lucien Emile Conein đến gặp Tướng Khiêm, một nhân viên CIA, lúc đó là Tham Mưu Trưởng Liên Quân, và cho biết quyết định của Hoa Kỳ muốn lật đổ Tống Thống Ngô Đình Diệm. Tướng Khiêm đồng ý nhận thực hiện kế hoạch đó, nhưng gợi ý nên đi gặp Tướng Dương Văn Minh và Tướng Trần Văn Đôn. Trong khi đó, một điệp viên khác là Al Spera, cố vấn chính trị Bộ Tổng Tham Mưu, đi Pleiku gặp Tướng Nguyễn Khánh, một cộng tác viên khác của CIA, để thảo luận về việc này. Khi Al Spera hỏi Tướng Khánh về tướng Khiêm, Tướng Khánh đã nắm chặt hai bàn tay của mình lại và nói: “Chúng tôi như thế này.”

    Sau khi Tướng Khiêm và Lucien Conein phác xong họa kế hoạch hành động, ngày 2 tháng 10, 1963 khi Tướng Đôn lên phi trường đi Nha Trang thì Lucien Conein đến gặp và hẹn sẽ nói chuyện với nhau ở Nha Trang. Tối hôm đó, tại Nha Trang, Lucien Conein thuyết phục Tướng Đôn làm đảo chánh và Tướng Đôn đã đồng ý. Ngày 5 tháng 10, 1963, Lucien Conein lại đến bàn chuyện này với Tướng Dương Văn Minh. Tướng Minh cũng đồng ý. Tướng Đôn được giao cho phối trí lực lượng, còn Tướng Minh lãnh đạo Hội Đồng Cách Mạng. Tất cả nằm dưới sự chỉ đạo của Lucien Conein và Tướng Khiêm.

    1. Vai trò của Lucien Emile Conein:

    Chúng tôi chưa tìm được tài liệu nào nói về điệp viên Al Spera, nhưng chúng tôi có khá nhiều tài liệu về điệp viên Lucien Emile Conein. Ông sinh năm 1919 tại Paris, mồ côi cha sớm, lúc mới 5 tuổi được mẹ gởi sang Hoa Kỳ sống với bà dì tại Kansas City thuộc tiểu bang Kansas, nhưng vẫn giữ quốc tịch Pháp. Ông đã từng làm điệp viên cho OSS (tiền thân của CIA) từ năm 1943 với cấp bậc Trung Úy, hoạt động chống Đức Quốc Xã trong Đệ Nhị Thế Chiến ở Âu Châu, rồi qua Bắc Việt khi chiến tranh chấm dứt. Từ 1954 đến 1956 ông đến Việt Nam hoạt động trong toán đặc nhiệm dưới quyền của Đại Tá Edward Lansdale, người đã giúp Tổng Thống Ngô Đình Diệm chống lại nhóm Bảy Viễn và Tướng Nguyễn Văn Hinh. Sau đó, ông trở về Mỹ và tham gia Lực Lượng Đặc Biệt (Special Force), nhưng vẫn còn làm việc cho CIA.

    Năm 1961 ông đã xin về hưu, nhưng năm 1962 ông được CIA gọi làm việc trở lại và phong cho chức Trung Tá với bí danh là Lulu hay Black Luigi, rồi gởi qua Sài Gòn làm cố vấn cho Bộ Nội Vụ. Nhưng trong thực tế, Lucien Conein có nhiệm vụ móc nối với các tướng Việt Nam mà ông đã có dịp quen biết khi phục vụ dưới quyền của Đại Tá Lansdale, để chuẩn bị tổ chức đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

    Đại Sứ Henry Cabot Lodge gọi Lucien Conein là “the indispensable man” (con người rất cần thiết). Còn trong cuốn “Vietnam: A History,” sử gia Stanley Karnow nói rằng Lucien Conein là “một người lập dị, một người náo nhiệt, một nhân viên tình báo rất nhạy cảm và hoàn toàn chuyên nghiệp, thường không thể kiểm soát được.” Sau này, Everette E. Howard Hunt cũng đã dự tính dùng Lucien Conein trong vụ Watergate.

    Mỗi lần được phỏng vấn, Lucien Conein thường mở đầu câu chuyện bằng câu: “Bây giờ, đây là sự thật hai mặt, là thứ danh dự của hướng đạo sinh, là sự thật hai mặt” hay “Đừng tin bất cứ điều gì tôi nói. Tôi là một tên nói dối chuyên nghiệp.”

    Khi cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11, 1963 xảy ra, Lucien Conein đến Bộ Tổng Tham Mưu chỉ đạo trực tiếp. Ông ngồi trên ghế của Tướng Lê Văn Tỵ, đặt hai túi bạc dưới ghế, hai chân gác lên bàn, bên cạnh có khẩu 375 Magnum, chỉ huy các tướng Việt Nam thực hiện. Trong cuốn Việt Nam Nhân Chứng, Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin ông Diệm và ông Nhu đã ra khỏi Dinh Gia Long, Lucien Conein đã hỏi: “Hai ông ấy đi đâu? Phải bắt lại cho kỳ được, vì rất quan trọng.” Lucien Conein đã nói với các tướng đảo chánh bằng tiến Pháp: “On ne fait pas d'omelette sans casser les oeufs.” (Người ta không thể làm món trứng rán mà không đập bể những cái trứng.) (trang 228)

    Khi bước xuống tuyền đài ngày 3 tháng 6, 1998 tại Virginia, Hoa Kỳ, Lucien Conei đã ôm theo khá nhiều bí mật của cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11, 1963.

    2. Tướng Trần Thiện Khiêm:

    Trong cuốn “Việt Nam nhân chứng,” Tướng Trần Văn Đôn nói rằng trong kế hoạch đảo chánh, ông rất dè dặt với Tướng Khiêm vì tướng này rất được ông Diệm và ông Nhu tin cậy. Vợ ông, bà Đinh Thị Yến, lại có chân trong ban chấp hành Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới Trung Ương của bà Nhu và là dân biểu Quốc Hội, thường đi sát với bà Nhu. Ông nhờ Tướng Minh thăm dò. Qua một người Mỹ “tận tụy và tìm hiểu giùm,” Tướng Minh cho biết Tướng Khiêm đồng ý tham gia đảo chánh.

    Khi viết như vậy, Tướng Đôn không biết gì nhiều về sự sắp xếp của CIA trong cuộc đảo chánh này. Ngay cả khi lệnh giết ông Diệm và ông Nhu được CIA truyền xuống, Tướng Đôn cũng không hề được cho biết. Một vài câu chuyện sau đây do một nhân chứng có mặt tại Bộ Tổng Tham Mưu trong suốt thời gian cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11, 1963 xảy ra, cũng đủ cho chúng ta thấy vài trò của Tướng Khiêm quan trọng như thế nào:

    - Khoảng 1 giờ 25 trưa ngày 1 tháng 11, 1963, Tướng Khiêm bước ra bước vào nơi ông làm việc. Đúng 1 giờ 30, tin đảo chánh được phổ biến, các tướng lãnh liên miên ra vào văn phòng Tướng Khiêm.

    - Sáng 2 tháng 11, 1963, có người đem bộ complet màu xám sậm đến đứng ở lầu ba chờ. Tùy phái của Tướng Khiêm ra hỏi thì được biết người này được gọi đem áo tới cho Tổng Thống Diệm. Khoảng 9 giờ, một đại tá bước vào phòng Tướng Khiêm. Hai phút sau, đại tá này bước ra và bảo người kia đem bộ đồ complet về, vì Tổng Thống đã chết! Trên lầu, nhiều tướng lãnh ra vào phòng Tướng Khiêm rất nhộn nhịp. Buổi tối, sau khi xác ông Diệm và ông Nhu được liệm xong, một báo cáo đã được trình lên cho Tướng Khiêm biết.

    - Khuya 3 tháng 11, 1963, khi mọi việc đã xong xuôi, Tướng Khiêm cho gọi Đại Tá Trần Văn Trung, Tham Mưu Phó Nhân Viên, và Đại Tá Đặng Văn Quang, Tham Mưu Phó Tiếp Vận, vào văn phòng ông và ra lệnh: “Hai ‘toi’ trực ở đây đêm nay, ‘moi’ về nghỉ.”

    - Một tuần lễ sau, Tướng Khiêm bước vào ban văn thư và hỏi Đại Úy Phạm Bá Hoa, chánh văn phòng của ông, “Có cho anh em mỗi người lên một cấp chưa? Nếu có gì xảy ra, ‘moi’ bay đầu thì các anh em cũng không được yên đâu.”

    Đọc thêm cuốn “Đôi dòng ghi nhớ” của Đại Tá Nguyễn Bá Hoa, độc giả sẽ thấy rõ hơn quyền hành của Tướng Khiêm trong cuộc đảo chánh này.

    Lệnh hành quyết

    Từ trước đến nay, chúng ta thường tranh luận về ai đã ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Nay cuốn băng của Tổng Thống Johnson đã chính thức xác nhận rằng chính quyền Kennedy (Kennedy administration) đã ra lệnh giết, nên vấn đề này không cần phải tranh luận nữa.

    Lệnh hành quyết do Washington truyền cho Đại Sứ Lodge ở Sài Gòn. Ông này truyền cho Trần Thiện Khiêm và Dương Văn Minh qua Lucien Conein. Tướng Minh giao cho cận vệ của mình là Đại Úy Nguyễn Văn Nhung thi hành dưới sự chỉ đạo của Tướng Mai Hữu Xuân. Các sĩ quan khác, kể cả Tướng Đôn, đều không biết gì hết.

    Như đã nói ở trước, ngoài Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu, Đại Sứ Henry Cabot Lodge đã quyết định giết thêm Ngô Đình Cẩn và Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt. Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh cho Nguyễn Văn Nhung đưa Đại Tá Lê Quang Tung ra nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế phía sau Bộ Tổng Tham Mưu đâm chết và vùi thây ở đó. Muốn giết ông Ngô Đình Cẩn, CIA phải lừa ông vào Tòa Lãnh Sự Mỹ ở Huế, nói rằng sẽ cho đi ngoại quốc, sau đó dùng công điện báo cáo láo về Washington nói rằng trong nhà ông Cẩn có hầm chôn người và súng, dân chúng đang biểu tình, rồi giao ông Cẩn cho Tướng Khánh giết. Trong cuốn “Việt Nam nhân chứng,” Tướng Đôn xác nhận trong nhà ông Cẩn không hề có hầm chôn người hay súng.

    Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ rằng sở dĩ Tổng Thống Johson đã gọi nhóm tướng lãnh được thuê làm đảo chánh là “một bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” vì hai lý do: Lý do thứ nhất là cách thức giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu. Chưa một nhà lãnh đạo nào trên thế giới đã bị bọn tay chân bộ hạ thân tín, được hưởng nhiều ơn mưa móc, giết một cách thê thảm như thế trong một cuộc đảo chánh. Lý do thứ hai là sự tham nhũng và bất tài của nhóm này.

    Hành động “ác ôn côn đồ”

    Khoảng 10 giờ ngày 2 tháng 11, 1963, khi chiếc M113 chở xác ông Diệm và ông Nhu về đến Bộ Tổng Tham Mưu, đậu trên sân cỏ phía tay phải. Mở cửa xe phía sau ra, người ta thấy ông Diệm mặc bộ complet màu xám sậm, ông Nhu mặc bộ complet màu hơi nâu tím. Cả hai bị trói thúc ké tay sau lưng, nằm nghiêng trên sàn xe, máu me dầm dề. Một quân cảnh đứng gác tại đó cho biết, Tướng Dương Văn Minh đã xuống và tự tay vạch quần ông Diệm ra xem có “chim” không!

    Với các dấu vết trên hai xác chết như vậy, nhiều người đã đặt câu hỏi: Hai ông đã bị giết như thế nào? Cách tường thuật của mỗi người mỗi khác.

    Trong cuốn “Assassin in our Time” (“Kẻ sát nhân trong thời đại chúng ta”) xuất  bản năm 1976, ở trang 142, Sandy Lesberg đã mô tả như sau: Ông Diệm và ông Nhu ngồi với hai tay trói sau lưng. Trong khi ông Diệm giữ im lặng, bất thình lình viên thiếu tá dùng dao găm (bayonet) đâm ông Nhu 15 hay 20 lần. Sau đó, hắn ta rút súng lục bắn vào sau đầu ông Diệm. Thấy ông Nhu còn quằn quại trên sàn, viên thiếu tá ban cho ông ta một cú ân huệ bằng cách cũng bắn vào đầu ông ta.

    Sandy Lesberg không cho biết ông đã lấy tin này từ ai. Thật ra, lúc đó Nguyễn Văn Nhung còn là Đại Úy, sau này mới được thăng Thiếu Tá.

    Với cuốn “Les Guerres du Vietnam” (“Chiến tranh Việt Nam”) xuất bản năm 1985, Tướng Trần Văn Đôn không hề mô tả gì đến cách giết ông Diệm và ông Nhu, mà chỉ mô tả về sự tàn ác của sát thủ Nguyễn Văn Nhung mà thôi.

    Bà Ellen J. Hammer, tác giả của cuốn “A Death in November” (“Cái chết vào Tháng Mười Một”), nói rằng khi chiếc xe chở ông Diệm và ông Nhu dừng lại ở cổng xe lửa đường Hồng Thập Tự, Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa từ trên miệng cửa xe lia một tràng tiểu liên vào hai ông Diệm và Nhu. Đại Úy Nhung rút súng Colt ra bồi thêm mấy phát vào đầu. Nhưng thấy chưa thỏa lòng, Nhung rút dao găm đâm tới tấp vào ngực hai anh em ông Diệm.

    Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa phủ nhận lời tường thuật này, ông nói rằng ông không ngồi trên xe chở ông Diệm và ông Nhu lúc đó. Nếu chính ông đã giết ông Diệm và ông Nhu, người ta cũng đã giết ông như giết Nguyễn Văn Nhung rồi.

    Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa là một đảng viên đảng Đại Việt, thuộc vào loại căm thù nhà Ngô, sau này đã được Tướng Nguyễn Khánh cho ngồi ghế phụ thẩm quân nhân của Tòa Án Các Mạng, xét xứ và tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn theo lệnh của Henry Cabot Lodge, mặc dù không có bằng chứng xác thực. Do đó, nhiều người vẫn tin vào lời tường thuật của bà Sandy Lesberg.

    Có lẽ Tướng Nguyễn Chánh Thi là người biết rõ Đại Úy Nguyễn Văn Nhung đã giết ông Diệm và ông Nhu như thế nào, vì sau cuộc “chỉnh lý” ngày 30 tháng 1, 1964, trước khi ra lệnh giết Đại Úy Nhung để phi tang một nhân chứng quan trọng (có lẽ theo lệnh của CIA), ông đã đích thân lấy lời khai của Nhung và còn bắt Nhung ngồi viết lời khai về vụ này. Ông có cho tôi nhìn qua tờ khai này năm 1968 khi đang ở Washington D.C. Nhưng rất tiếc, khi xuất bản cuốn “Việt Nam: Một trời tâm sự” ông đã không cho in nguyên văn tờ khai này, mà tự ý sửa đổi và cắt bớt đi. Tướng Mai Hữu Xuân được đổi thành Tướng Thu, mặc dầu trong Quân Lực VNCH lúc đó không có tướng nào tên là Tướng Thu cả. Theo tờ khai mà Tương Thi công bố trong cuốn sách nói trên, Đại Úy Nhung đã khai như sau:

    Khi xe M113 chở ông Diệm và ông Nhu chạy được chừng 500 thước, Thiếu Tướng Thu (tức Mai Hữu Xuân) chạy xe ngược chiều trở lại và đưa lên một ngón tay trỏ. Đang còn ú ớ chưa biết giết ai, ông Diệm hay ông Nhu, họ định chạy qua để hỏi lại cho rõ thì dân chúng ùa ra xem rất đông, không chạy qua được. Bỗng Thiếu Tướng Thu đưa hai ngón tay, họ hiểu rằng ông ra lệnh bắn cả hai người. Thiếu tá Nhung liền rút súng Colt 12 bắn mỗi người 5 phát, và sau đó bắn ông Nhu thêm ba phát vào ngực nữa.

    Tướng Lê Minh Đảo, lúc đó là Đại Úy tùy viên của Tướng Lê Văn Kim, đã cho biết như sau: Sau khi ông Diệm và ông Nhu bị hạ sát ít lâu, Nguyễn Văn Nhung có kể lại chuyện này cho ông nghe. Nhung nói rằng khi được lệnh giết cả hai ông, Nhung đã bắn ông Nhu trước. Ông Diệm thấy thế đã nhắm mắt lại. Nhung liền bắn ông Diệm 5 phát. Sau đó quay qua bắn ông Nhu thêm 3 phát nữa. Điều này phù hợp với lời khai mà Tướng Nguyễn Chánh Thi đã công bố.

    Tuy nhiên, sự thật không phải chỉ có thế. Xác ông Diệm và ông Nhu đã được đưa vào bệnh xá của Bộ Tổng Tham Mưu để khám nghiệm. Bác sĩ Huỳnh Văn Hưỡn (hiện nay ở New York), giám đốc bệnh xá này lúc đó, đã khám nghiệm và chứng nhận rằng cả ông Diệm lẫn ông Nhu đã bị bắn từ sau ót ra trước. Xác ông Diệm có nhiều vết bầm, chứng tỏ đã bị đánh đập trước khi bắn. Xác ông Nhu bị đâm nhiều nhát, áo rách nát và đầy máu. Vậy ông Diệm và ông Nhu đã bị trói, đánh đập và đâm lúc nào?

    Một nhân chứng rất quan trọng hiện đang ở Melbourne, Úc Châu, cho biết ông là người đi trên chiết M113 chở ông Diệm và ông Nhu từ nhà thờ cha Tam về Bộ Tổng Tham Mưu, nên đã chứng kiến những sự việc xảy ra. Câu chuyện ông kể lại có vẻ hợp lý hơn cả.

    ***

    Theo nhân chứng này, vào trưa 1 tháng 11, 1963, chi đoàn thiết giáp của ông được lệnh vào Sài Gòn để tăng cường bảo vệ thủ đô. Khi đến Sài Gòn, chi đội này được chia làm hai toán, một toán hợp lực với quân bạn bao vây Dinh Gia Long, một toán làm vòng đai an ninh cho Bộ Tổng Tham Mưu. Nhân chứng ở trong toán đóng tại Bộ Tổng Tham Mưu.

    Sáng 2 tháng 11, 1963, khoảng 6 giờ 15 phút, toán ông được lệnh di chuyển ra khỏi Bộ Tổng Tham Mưu. Khi vừa ra khỏi cổng chính thì thấy có 3 chiếc xe Jeep đang chờ. Chiếc thứ nhất có Tướng Mai Hữu Xuân và 3 cận vệ. Chiếc thứ hai chở Đại Tá Dương Ngọc Lắm, Đại Úy Nguyễn Văn Nhung và Đại Úy Dương Hiếu Nghĩa. Chiếc thứ ba chở 4 người, trong đó có Đại Úy Phan Hòa Hiệp. Sau đó là hai chiếc M113. Nhân chứng ngồi ở chiếc thứ nhì. Cuối cùng là 2 chiếc GMC chở đầy lính có vũ trang đầy đủ.

    Khi đến Chợ Lớn, gần một nhà thờ, xe chạy chậm lại, các binh sĩ trên hai chiếc GMC được lệnh nhảy xuống, một số bố trí xung quanh nhà thờ, số còn lại bố trí ở vòng ngoài. Xe Tướng Xuân chạy một vòng rồi đậu lại bên kia đường.

    Sau cái phất tay của Đại Tá Dương Ngọc Lắm, ba đại úy Nhung, Nghĩa và Hiệp nhảy xuống xe. Đại Tá Lắm ngoắc chiếc M113 có nhân chứng ngồi trên đó đi theo. Nhân chứng cũng nhảy xuống xe. Khi cách Đại Tá Lắm khoảng 2 thước, nhân chứng thấy có 4 người từ trong nhà thờ đi ra. Người đi đầu là Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Người đi tiếp theo là ông Ngô Đình Nhu. Sau cùng là hai tùy viên (Đại Úy Đỗ Thọ và ông Nguyễn Đắc Khá). Đại Tá Lắm đến chào ông Diệm:

    - Thừa lệnh Trung Tướng Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, chúng tôi đến đón cụ và ông cố vấn.

    Ông Diệm:

    - Ông Đôn và ông Minh đâu hè?

    Đại Tá Lắm:

    - Thưa cụ, hai ông còn đang bận việc ở Tổng Tham Mưu.

    - Thôi được. Thế tôi và ông cố vấn đi cùng xe kia với ông.

    Đại Tá Lắm quay người lại chỉ vào chiếc M113 và nói:

    - Thưa cụ, xin cụ lên xe này cho.

    Ông Nhu khẽ nhíu mày lên tiếng:

    - Không thể đón Tổng Thống bằng một chiếc xe như vậy. Để tôi liên lạc với ông Đôn, ông Đính coi xem.

    Đại Tá Lắm khẽ nhún vai:

    - Tôi không biết. Đây là lệnh của Trung Tướng Chủ Tịch.

    Đại Úy Nhung liền oang oang:

    - Xin mời hai ông lên xe ngay cho đi.

    Mặt ông Nhu đỏ bừng, giọng rất quyết liệt:

    - Không được. Để tôi hỏi lại ông Minh, ông Đôn. Tôi đi xe nào cũng được, nhưng còn Tổng Thống...

    Đại Úy Nhung:

    - Ở đây không còn Tổng Thống nào cả.

    Ngay lập tức, Nhung bảo hai quân nhân chạy đến đẩy hai ông lên xe và hạ cửa xe xuống...

    Xe đi hết đường Nguyễn Trãi, vào đường Võ Tánh đến trước Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia thì ngừng lại. Tổng Nha này đã bị chiếm từ ngày hôm trước nên không còn một cảnh sát nào lui tới. Chung quanh, các binh sĩ thuộc Sư Đoàn 5 của Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu canh gác rất cẩn mật.

    Một Đại Tá từ trên xe Jeep nhảy xuống, bảo các binh sĩ trên xe M113 chở ông Diệm và ông Nhu xuống xe hết. Bảy người trên xe nhảy xuống, nhưng tài xế và anh hạ sĩ xạ thủ được ra lệnh ở lại. Xe được lệnh đi vào Tổng Nha.

    Khoảng 20 phút sau, chiếc M113 lại từ Tổng Nha chạy ra. Các binh sĩ lúc nãy được lệnh leo lên xe lại. Xe chạy ngược đường Võ Tánh trở lại đường Cộng Hòa. Nhân chứng hỏi hạ sĩ xạ thủ:

    - Ông Diệm và ông Nhu đâu?

    - Ở dưới.

    - Sao rồi?

    - Ông Nhu bị tra tấn khủng khiếp rồi bị xiết cổ chết bằng dây điện. Người ta hỏi ông ta nhiều lần: Vàng, bạc, tiền của cất đâu? Ai giữ? Cơ sở kinh tài gồm những cơ sở nào? Ông Nhu trả lời không biết.

    - Còn ông Diệm?

    - Ông Diệm bị đè cổ ra trói thúc ké rồi ném vào hầm xe.

    - Chết hay sống?

    - Không biết.

    Xe qua khỏi trường Petrus Ký rồi quẹo phải vào đường Hồng Thập Tự thì gặp lại 2 xe Jeep và hai xe chở binh sĩ lúc xuất hành buổi sáng. Xe Đại Tá Dương Ngọc Lắm đi đầu, xe thứ hai có Đại Úy Nhung. Khi đến đường Cao Thắng, bên hông bệnh viện Từ Dũ, xe ngừng lại vì bên kia đang có xe của Tướng Xuân chạy ngược trở lại. Dân chúng ra xem rất đông. Tướng Xuân nhìn Đại Úy Nhung và đưa hai ngón tay trái lên hai lần. Sau đó, ông đưa ngón tay trỏ lên khỏi đầu và co vào duỗi ra đến 4 lần (gióng như bóp cò). Đại Úy Nhung gật đầu rồi đưa tay lên chào.

    Khi xe đến gần đường rầy xe lửa thì dừng lại trước cổng xe đã được đóng lại vì đang có đoàn xe lửa đi qua. Đại Úy Nhung từ chiếc xe Jeep nhảy qua chiến M113 có chở ông Diệm và ông Nhu và la lớn: “Xuống! Xuống!” Các binh sĩ trên xe M113 nhảy xuống hết. Nhân chứng vừa nhảy xuống đất thì nghe nhiều tiếng súng nổ...

    ***

    Những lời tiết lộ của nhân chứng vừa nêu cho chúng ta thêm những yếu tố mới, nhất là đoạn 2 ông bị đưa vào Tổng Nha Cảnh Sát để tra tấn và khảo của. Trò khảo của này là một “sở trường” của Tướng Mai Hữu Xuân. Sự tiết lộ này đã giúp giải thích tại sao hai ông bị trói tay ra phía sau lưng, trên mặt ông Diệm có nhiều vết bầm và trên người ông Nhu có nhiều lát dao đâm. Nguyễn Văn Nhung chỉ leo lên xe M113 trong một thời gian ngắn, không thể gây ra tất cả những thứ đó được.

    Sau khi thi hành xong lệnh của chủ và lãnh tiền công, “bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” cấu xé nhau về chức quyền và tiền bạc, đưa tới mất mất chủ quyền quốc gia, rồi đến mất nước.

    Bây giờ ở nơi các địa tầng “naraca,” Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim, Đỗ Mậu, Nguyễn Văn Thiệu, Dương Ngọc Lắm, Nguyễn Văn Quan, Nguyễn Văn Nhung... đang cùng với hai “ông thầy” Henry Cabot Lodge, Lucien Emile Conein nghiền ngẫm về lời nguyền rủa của Tổng Thống Johnson.

    Nghe nói trong những năm cuối cùng, Mai Hữu Xuân đã phát điên, thỉnh thoảng quỳ quay vào tường, chắp tay van lạy, “Xin cụ tha cho con!”

    Nơi chốn luân hồi, Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang... không dám bước ra nhìn ánh sáng, Tôn Thất Đính thất thểu như một bóng ma...

    Lữ Giang

    Thứ Tư, 15 tháng 10, 2014

    Nhà báo Nhật Bản: Mỹ và Ukraina cố tình che dấu dữ liệu vụ rơi máy bay "Boeing" của Malaysia Đọc tiếp: http://vietnamese.ruvr.ru/2014_09_02/276747401/

    Nhà báo Nhật Bản: Mỹ và Ukraina cố tình che dấu dữ liệu vụ rơi máy bay "Boeing" của Malaysia

    © Photo: REUTERS/Maxim Zmeyev

    Chủ đề vụ máy bay "Boeing" của hàng không Malaysia bị rơi một cách bí ẩn ở Ukraina gần như đã biến mất khỏi các phương tiện truyền thông phương Tây.

    Nhà báo nổi tiếng Nhật Bản Kazuo Kobayashi cho rằng Hoa Kỳ và Ukraina không quan tâm đến việc tiết lộ thông tin mà họ đang có về vụ việc việc này, bởi họ sợ rằng điều đó sẽ làm suy yếu cơ sở để buộc tội và thi hành các biện pháp trừng phạt chống Nga.

    Lực lượng dân quân Đông Nam Ukraina nắm quyền kiểm soát một phần quan trọng khu vực máy bay "Boeing" Malaysia bị rơi khiến 298 người thiệt mạng. Tuy nhiên, quân đội Ukraina tiếp tục cho pháo binh bắn phá hiện trường máy bay rơi, như thể cố gắng phá hủy bằng chứng để cản trở cuộc điều tra khách quan sẽ cung cấp lời đáp cho câu hỏi: Ai là những người phải chịu trách nhiệm về vụ máy bay Malaysia bị rơi tại đây. Có vẻ như Kiev, Washington, Brussels và các phương tiện truyền thông phương Tây đều không cần đến lời đáp cho câu hỏi này, dù mới đây họ cùng đồng thanh buộc tội Moskva ủng hộ "phe ly khai thân Nga" trong vụ rơi máy bay.

    Nhà báo nổi tiếng của Nhật Bản Kazuo Kobayashi đưa ra phương án của mình để giải thích các hành vi như vậy của những kẻ lớn tiếng chỉ trích Nga ở phương Tây. Đây là những gì ông nói khi trả lời phỏng vấn MIA "Nước Nga ngày nay”: “Trong trường hợp này, điều kỳ lạ nhất có lẽ là chính phủ Mỹ cũng như Ukraina không hề cung cấp bất kỳ bằng chứng nào. Đặc biệt là những bằng chứng có thể trả lời các câu hỏi mà Nga đặt ra. Điều này thật kỳ lạ. Nếu thực tế đúng như Hoa Kỳ tuyên bố rằng máy bay bị bắn hạ bởi tên lửa "Buck" của Nga, hay bị các lực lượng dân quân bắn trúng với sự hỗ trợ của Nga, sẽ tốt đẹp hơn nếu Washington và Kiev cung cấp được bằng chứng về các dự đoán như vậy. Theo ý kiến ​​của tôi, vấn đề là ở chỗ ​​ chính phủ Ukraina có đầy đủ các dữ liệu về sự cố máy bay Boeing, nhưng họ không muốn tiết lộ thông tin này. Tất nhiên, đây chỉ là quan điểm cá nhân của tôi, có lẽ Ukraina không thể tiết lộ thông tin này bởi vì trong trường hợp đó những nỗ lực quy trách nhiệm vụ rơi máy bay "Boeing" cho Nga sẽ thất bại. Chắc là Ukraina phải chịu trách nhiệm về sự cố máy bay? Tất nhiên, tôi không có bằng chứng chống lại Ukraina, nhưng tôi thấy rằng toàn bộ mọi điều này là rất khó hiểu.”

    Tại sao tất cả những quốc gia đã lập tức tích cực cáo buộc Nga ngay sau khi vụ việc xảy ra, bây giờ lại im lặng? Ông Kazuo Kobayashi nói:

    “Chỉ vì họ không đưa ra được bất cứ bằng chứng nào chống lại Nga. Nếu như họ đã có bằng chứng, họ đã có thể công bố các dữ liệu về "Boeing" và máy bay "Su", được nhìn thấy bám gần sát máy bay Malaysia.”

    Kazuo Kobayashi không phải là nhà báo phương Tây duy nhất nghi ngờ phương án Nga có lỗi về vụ máy bay "Boeing" Malaysia bị rơi. Và càng ngày càng có nhiều người hoài nghi về chuyện này.
    Đọc tiếp: http://vietnamese.ruvr.ru/2014_09_02/276747401/

    Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2014

    Snowden 'buộc' các ông trùm tình báo Anh lộ diện

    Các chỉ huy tình báo Anh đã cùng xuất hiện trước công chúng lần đầu tiên để chỉ trích cựu điệp viên Mỹ Edward Snowden, nói rằng việc anh này tung ra tài liệu mật về các chiến dịch tình báo đang làm Al Qaeda vui mừng.

    Trong một phiên điều trần chưa từng có tiền lệ trước Quốc hội, lãnh đạo 3 cơ quan tình báo lớn của Anh cho biết tiết lộ của Snowden khiến họ suy nghĩ về chuyện sẽ công khai hơn về những việc họ đang làm, Reuters đưa tin hôm 7.11.


    Lần xuất hiện công khai cùng nhau lần đầu tiên của lãnh đạo 3 cơ quan tình báo chính tại Anh: (từ trái sang phải) Giám đốc MI5 Andrew Parker, Giám đốc MI6 John Sawers và Giám đốc GCHQ Iain Lobban. Báo chí Anh ví sự kiện vô tiền khoáng hậu này giống như cảnh trong phim tình báo James Bond - Ảnh: Reuters

    Tuy nhiên, các quan chức tình báo này cũng nói rằng phần lớn công việc của họ vẫn phải được đặt trong vòng bí mật vì lý do an ninh quốc gia.

    Ngoài ra, lãnh đạo 3 cơ quan này cũng thừa nhận những thông tin mật bị rò rỉ, phanh phui việc tình báo Anh hợp tác chặt chẽ với Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ (NSA), đã gây thiệt hại nặng nề cho các cơ quan này.

    “Điều này gây nguy hiểm cho các hoạt động của chúng tôi”, Reuters dẫn lời ông John Sawers, người đứng đầu MI6, cơ quan tình báo nước ngoài của Anh, phát biểu trong phiên điều trần.

    “Rõ ràng là kẻ thù của chúng ta đang xoa tay khoan khoái. Al Qaeda chắc đang rất vui sướng”, ông Sawers nói thêm.

    Giới quan sát nhận định phát biểu của ông Sawers cho thấy rõ sự giận dữ của các chỉ huy tình báo đối với Snowden.

    Được biết, các tổ chức nhân quyền, một số báo đài và nghị sĩ thuộc tất cả các đảng phái chính trị tại Anh đã tranh luận rằng tiết lộ của cựu nhân viên tình báo Mỹ về quy mô do thám của chính phủ cho thấy cần phải đặt các cơ quan tình báo dưới sự kiểm soát gắt gao hơn.

    Ông Iain Lobban, Giám đốc GCHQ, cơ quan tình báo điện tử Anh, phát biểu tại phiên điều trần rằng các lãnh đạo tình báo đang “sôi nổi” cân nhắc xem liệu có nên chia sẻ thêm nhiều thông tin về công việc tình báo với công chúng hay không.

    Nhưng ông cũng lập luận rằng một số phần vẫn phải được bảo mật, viện dẫn những ví dụ cho thấy tiết lộ của Snowden gây hại cho an ninh quốc gia.

    “Chúng tôi thực sự đã đọc được những đoạn trò truyện trực tuyến của các nhóm khủng bố, tranh luận về cách tránh dùng các phương pháp liên lạc mà giờ chúng đã thấy là dễ bị phát hiện và về cách lựa chọn các phương pháp mà giờ chúng nhận ra rằng khó bị phát giác”, ông Lobban cho hay.

    Giám đốc GCHQ cũng nói thêm rằng cơ quan này không nghe lén điện thoại hay đọc lén email của phần lớn người dân Anh vì đây là phạm pháp, đồng thời khẳng định chỉ làm vậy với những trường hợp cá biệt.

    Xuất hiện trong phiên điều trần lần này còn có sự tham dự của ông Andrew Parker, Giám đốc cơ quan tình báo nội địa MI5.

    Trong quá khứ, những phiên điều trần kiểu này luôn là họp kín và mãi đến năm 1992 danh tính của giám đốc MI6 được công bố công khai. Cơ quan này được thành lập hồi năm 1909.

    Cựu tù Guantanamo kể chuyện

    Ngồi ăn bánh mì kẹp thịt và nước cam vắt ở Paris: một hạnh phúc bình dị mà sao đắt giá quá! Đã bảy năm bảy tháng người cựu tù Lakhdar Boumediene chưa một lần được ăn như vậy. Đã bảy năm bảy tháng ông chưa bao giờ được cùng gia đình ngồi ăn trong một quán ăn.

    Đó là buổi sáng thứ hai 25-5, những tia nắng chói chang chiếu xiên ngang qua ô cửa kính một quán ăn ở ngoại ô Paris (Pháp), nơi Lakhdar Boumediene, 43 tuổi, đang tận hưởng ngày tự do đầu tiên vừa tìm lại được. “Tôi là một công dân bình thường” - ông cứ nhắc đi nhắc lại như để tự trấn an giờ đây tự do là điều có thật. Ngày 20-11-2008, một thẩm phán Mỹ đã bác bỏ mọi cáo buộc khép ông vào tội khủng bố, một sự nghi ngờ vô lối đã khiến ông bị bắt giữ và nhốt vào nhà tù Guantanamo từ tháng 1-2002 đến 15-5-2009.

    Số tù của ông là 10005: “Tên tôi trong tù là vậy. Cứ thế mà người ta gọi tôi. Chứ chẳng bao giờ gọi là Jamais Lakhdar hay Boumediene cả. Để gọi cho nhanh hơn, bọn cai tù chỉ gọi là 10K5”. Ông đã bị chính quyền Bosnia trao cho người Mỹ vào tháng 12-2001, do Bosnia nghi ngờ ông âm mưu tổ chức cuộc tấn công vào Đại sứ quán Mỹ ở Sarajevo.

    Mặt mày hốc hác, bộ râu bạc đã tỉa tót lại, mặc áo polo xám, hai tay áo xắn cao, quần trắng, hai mắt đen sậm, một kẻ thoát nạn như Lakhdar Boumediene chỉ còn nặng 58kg bởi: “Chỉ hơn hai năm, từ tháng 3-2006 cho đến khi các thẩm phán tuyên bố tôi vô tội, tôi đã sụt mất hơn 20kg”. Mới chỉ cách nay 10 ngày, tức là ngày 15-5, ông đã được đẩy lên một chiếc máy bay của không lực Hoa Kỳ, rời Cuba để đáp xuống căn cứ không quân Pháp Evreux (Eure).

    Cuộc hành trình dài chín giờ, tay và chân bị còng, với 16 lính gác có vũ trang, cứ bốn lính gác một lần thay nhau canh giữ suốt chuyến bay. Ông bị ám ảnh gì không? Có chứ, đó là làm sao giải quyết một nhu cầu cấp bách như là đi vệ sinh.

    “Tôi nhớ là trong chuyến bay qua Cuba trước đây, tôi không được quyền đi vệ sinh. Do đó, lần này tôi đã cảnh giác: tôi không ăn và cũng không uống gì cả trước chuyến bay”.

    Là người có quốc tịch Algeria, Lakhdar được đón tiếp tại Pháp. Vợ và các con gái ông, sau khi ông bị bắt, đã trở về Algeria, và lần này trở qua Pháp với sự can thiệp của chính quyền Pháp. “Nhất là đừng quên cảm ơn Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy, các đại sứ Pháp ở Washington và Alger, và lãnh sự Pháp ở Oran” - ông nhắc nhở họ.

    Lúc này đây gia đình Boumediene chọn định cư tại Pháp. Lakhdar có thân nhân ở đây và như ông nói là đã gắn bó với văn hóa Pháp rồi. Có lẽ một ngày nào đó ông sẽ trở về Algeria, nhưng giờ chưa đến lúc để nghĩ ngợi xa xôi gì.

    Lakhdar vừa ra khỏi Bệnh viện quân đội Percy de Clamart (Hauts-de-Seine) được ba giờ, và giờ ông đang tự do dạo chơi, tay cầm tay với người vợ yêu quý Abassia, hai cô con gái Radjaa 13 tuổi và Raham 8 tuổi, hai đứa con mà ông đã không thể nhìn ngắm chúng lớn lên ra sao. “Đúng là tôi đã không sao nhận ra các con của mình”.

    Con người vừa rời khỏi địa ngục này giờ đang phải tập học lại từng cử chỉ đơn giản của cuộc sống. Thoát khỏi nhà tù Guantanamo, ông vẫn mang theo bộ áo tù của mình: một quần tây dài và một áo vest bằng vải kaki. Thoát khỏi trại tù số 6, nơi không có ánh sáng mặt trời và nơi khí lạnh làm xương cốt tê cóng do máy lạnh được bật lên tối đa.

    Ông kể: “Sáng dậy lúc 5g rồi cầu kinh. Sau đó trở về phòng. 6g, lính gác đến và đưa vào một căn phòng. Họ cho ngồi trên ghế, tay và chân bị còng lại, và họ cho ăn bằng cách luồn một cái ống vào lỗ mũi”. Lakhdar không hề nói chuyện được với ai. Ông được hít thở khí trời mỗi ngày một lần, chưa tới một giờ, “có khi vào ban ngày, có khi ban đêm, tùy theo lượt của mình”, và không hề gặp người tù khác.

    Cơn ác mộng đối với ông xảy ra vào tháng 2-2003. Bọn cai tù thẩm vấn ông liên tục. “Họ muốn biết thông tin về các hội từ thiện Hồi giáo ở Bosnia và về những người Ả Rập định cư ở Sarajevo, nhưng tôi hoàn toàn không biết gì về các việc này” - ông nói. Thế là, vào tháng 2-2003, bọn chúng lại thẩm vấn ông liên tục suốt 16 ngày 16 đêm: “Thẩm vấn bắt đầu từ lúc nửa đêm cho đến 5g sáng. Nghỉ vài giờ, rồi lại tiếp tục. Họ thay phiên nhau khoảng 6-7 người. Đến đêm thứ ba hay thứ năm gì đó, một bác sĩ quân y khám cho tôi và ông bảo với bọn cai ngục là mọi chuyện đều ổn cả và chúng có thể tiếp tục thẩm vấn tôi”.

    Lakhdar Boumediene bị bắt giữ tại Sarajevo vào tháng 10-2001, cùng với bốn người Algeria khác, tất cả đều sống ở thủ đô của Bosnia. Ông đến Bosnia vào tháng 4-1997, nơi ông làm việc cho Hội Lưỡi liềm đỏ. Ông rời Saïda, Algeria năm 1990. Ông nói chắc: “Tôi muốn làm việc ở các nước vùng Vịnh, bởi vì tại Algeria tôi đã làm việc ở công ty ximăng, và công việc này không tốt cho sức khỏe của tôi”.

    Sau một thời gian ở Sanaa, Yemen, ông đến sống hai năm tại Pakistan - năm 1991 và 1992 - không xa Peshawar, nơi ông chăm sóc trẻ mồ côi trong một trường học. Rồi ông trở lại Yemen, nơi ông bị kẹt bởi cuộc chiến tranh năm 1994 giữa Bắc và Nam Yemen. Tranh thủ thời gian này, ông ghi danh học ở Đại học Sanaa, trong khi vẫn theo các khóa học ở Trung tâm Văn hóa Pháp. Từ đó ông đi theo một người bạn ở Saïda qua Albania, nơi ông bắt đầu làm việc với Hội Lưỡi liềm đỏ, và sau đó hội phái ông đến làm việc ở Sarajevo.

    Tháng 12-2000, nhân khi trở về Algeria thăm gia đình, ông bị cảnh sát triệu tập và thẩm vấn khi vừa rời phòng hải quan ở sân bay Algiers. Hộ chiếu bị tịch thu, ông buộc phải ở lại thủ đô để chờ các nhà điều tra xác minh sự việc.

    Vào thời ấy, để rời Algeria và tham gia jihad, nhiều dân quân Hồi giáo Algeria đã tới các trại ở Afghanistan qua ngả Pakistan. Chính quyền Algeria nghi ngờ ông là một trong các chiến binh Hồi giáo ấy. Khoảng 5-6 ngày sau, họ trả lại hộ chiếu cho ông, nhưng sau khi đã cấp giấy ân xá cho ông, như chính quyền Algeria thường cấp cho các dân quân Hồi giáo quy phục. Ông thề: “Tôi chưa hề là dân quân Hồi giáo. Tôi tin rằng chắc là do nghi ngờ chuyện này mà người ta đã bắt giữ tôi lâu ngày như vậy”.

    Danh sách các dân quân Hồi giáo Algeria đến Pakistan có được chuyển cho người Mỹ sau vụ khủng bố ngày 11-9 không? Không suy nghĩ nhiều, Lakhdar Boumediene trả lời là có chứ.

    Mỹ bị buộc công bố video nhét thức ăn vào mũi tù nhân

    (TNO) Một thẩm phán liên bang Mỹ ngày 3.10 ra phán quyết đề nghị chính quyền Tổng thống Mỹ Barack Obama phải công bố 28 đoạn video có cảnh tù nhân ở nhà tù của Mỹ tại vịnh Guantanamo (Cuba) bị ép ăn, bơm thức ăn vào mũi.

    Thẩm phán Gladys Kessler đưa ra phán quyết trên sau khi 16 tổ chức báo đài Mỹ kiện chính quyền ông Obama, đề nghị công bố 28 đoạn video, theo AFP.

    Các đoạn video cho thấy “nhóm ép ăn” đặt ống bơm thức ăn vào mũi tù nhân Abu Wa'el Dhiab, ông Eric Lewis, một trong số những luật sư của Dhiab cho AFP biết.

    Tù nhân Dhiab là công dân Syria bị giam giữ ở nhà tù của Mỹ tại vịnh Guantanamo (Cuba) kể từ năm 2002 mà không hề bị truy tố tội danh nào, theo AFP.

    Dhiab nói ông đã kiện chính quyền ông Obama nhằm ngăn chặn những vụ ép ăn “vô nhân đạo” đối với những tù nhân tuyệt thực.

    Thẩm phán Kessler trước đó cũng đã đưa ra phán quyết, bác bỏ đề nghị của chính quyền ông Obama về việc xét xử kín vụ kiện của ông Dhiab.

    Tổng thống Obama xem việc đóng cửa nhà tù ở vịnh Guantanamo là một trong những chính sách ưu tiên của ông trong nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên (2009 - 2012) sau những vụ bê bối tra tấn tù nhân tại đây. Nhưng đến nay, Mỹ vẫn còn giam giữ trên 160 người tại nhà tù này.

    Báo Anh: Video cắt đầu nhà báo Mỹ chỉ là dàn dựng

    (TNO) Video quay cảnh hành quyết nhà báo Mỹ James Foley của tổ chức cực đoan Nhà nước Hồi giáo (IS) có lẽ chỉ là dàn dựng và Foley thực chất bị giết sau đó, các chuyên gia phân tích nhận định.


    Nhà báo Mỹ James Foley xuất hiện trong đoạn video hành quyết của tổ chức cực đoan Nhà nước Hồi giáo (IS) - Ảnh: Reuters

    Qua phân tích đoạn video hành hình kéo dài 5 phút, một công ty nghiên cứu pháp y quốc tế từng làm việc cho chính phủ Anh cho rằng IS đã dùng các kỹ xảo camera và chỉnh sửa hình ảnh hậu kỳ để tạo nên đoạn video, tờ The Times (Anh) đưa tin ngày 25.8.

    Một chuyên gia pháp y nói với The Times rằng đã không thấy máu túa ra, mặc dù con dao đã cứa qua cổ Foley ít nhất là 6 lần.

    “Sau khi được chỉnh sửa, con dao (trong đoạn video) được thấy như cứa qua phần cổ trên ít nhất 6 lần, nhưng lại không thấy máu và hình ảnh trên video tới đó thì chuyển dần sang màu đen”, chuyên gia này nói.

    Âm thanh được cho là giọng nói của Foley có vẻ như không bình thường, theo vị chuyên gia (giấu tên) này.

    Trong đoạn phát biểu của nhà báo Mỹ, đã có một âm thanh cho thấy Foley đã lặp lại lời mình.

    Một chuyên gia khác chịu trách nhiệm phân tích đoạn video bình luận: “Tôi nghĩ video này đã được dàn dựng. Cảm giác của tôi là vụ hành quyết đã diễn ra sau khi camera ghi hình được tắt đi”.

    Tuy nhiên, công ty pháp y, vốn đã yêu cầu được giữ kín danh tính, đã không đưa ra câu trả lời chắc chắn.
    “Không ai tranh luận rằng cuộc hành quyết diễn ra khi nào”, The Times dẫn lời công ty này cho hay.