Thứ Ba, 25 tháng 10, 2011

Con bài thí của Mỹ tạo

Chỉ là những con bài thí

Lữ Giang

Trong tháng 7, sự ra đi của hai cựu tướng lãnh VNCH đã được dư luận bàn tán khá nhiều, đó là Trung Tướng Đặng Văn Quang qua đời hôm 15.7.2011 tại Sacramento, California, hưởng thọ 82 tuổi, và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ mệnh chung ngày 23.7.2011 tại Kuala Lumpur, Malaysia, hưởng thọ 81 tuổi.

Hình như ít ai muốn bàn đến Tướng Quang, vì cựu viên chức CIA Frank Snepp đã viết quá nặng về ông rồi. Đa số tập trung vào Tướng Kỳ. Ngoài cá tính, cuộc sống, những việc làm của ông dưới thời VNCH, nhiều người phê phán rất nặng chủ trương “hoà giải hòa hợp dân tộc” của ông. Nhưng nhìn chung, đa số đều viết hay nói theo cảm tính, theo xu hướng chung của người Việt chống cộng ở hải ngoại..., chưa ai nói lên được vai trò thật sự của hai tướng này trong ván bài chiến tranh Việt Nam của Hoa Kỳ. Đây mới là vấn đề cần bàn để rút bài học lịch sử.

CON ĐƯỜNG MỸ ĐI

Chúng tôi xin nhắc lại, trước cuộc đảo chánh lật đổ ông Diệm năm 1963 hai ngày, Đại Sứ Cabot Lodge đã gởi về Washington một công điện trình rằng chiều 25.10.1963, ông Trần Trung Dung, cựu Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng, đã nói với viên chức CIA rằng ông được biết các tướng lãnh dự định làm đảo chánh trong vòng 10 ngày. Theo ông biết các tướng lãnh không tiếp xúc với các nhà lãnh đạo dân sự. Ông ta bày tỏ một vài sự quan tâm về khả năng và ý định của các Tướng Lãnh. Ông ta coi đa số các Tướng Lãnh không gì khác lơn là các trung sĩ được Pháp huấn luyện trong quân phục Tướng Lãnh (He consider majority of Generals no more than French trained sergeants in Generals’ uniforms”)... Các Tướng Lãnh thiếu kinh nghiệm chính trị cần thiết để điều hành chính phủ. (FRUS, Volume IV, tr. 457 – 458. Document 229).

Khi nói với CIA như vậy, có lẽ ông Trần Trung Dung tưởng rằng Mỹ không biết khả năng của các tướng mà họ đang dùng để làm đảo chánh. Nhưng ông đã lầm. Người Mỹ biết rất rõ chuyện đó, nên họ đã quyết định dùng các tướng này để làm công cụ thi hành chính sách của họ ở Việt Nam.

Sau khi lật đổ ông Diệm, người Mỹ cho Tướng Dương Văn Minh và ông Nguyễn Ngọc Thơ (Phó Tổng Thống của ông Diệm) làm chính phủ trái độn và để cho tình hình trở nên tồi tệ đến mức không còn cứu vãn được, rồi viện vào lý do đó, Mỹ cho hai tay chân bộ hạ là Tướng Nguyễn Khánh và Tướng Trần Khiêm lật đổ chính phủ Dương Văn Minh, lên cầm quyền và mở đường cho cho Mỹ đổ quân vào miền Nam. Sử gia George McT. Kahim của Mỹ đã gọi cuộc “chỉnh lý” ngày 30.1.1964 của Tướng Nguyễn Khánh là “The Pentagon’s coup”!

Theo tài liệu, Mỹ chỉ muốn Nguyễn Khánh làm quốc trưởng bù nhìn còn Trần Thiện Khiêm, một agent của Mỹ, làm thủ tướng và nắm thực quyền. Nhưng Tướng Khánh không muốn làm bù nhìn, bắt Tướng Khiêm phải đi ra ngoại quốc, và ông làm quốc trưởng kiêm luôn thủ tướng.

Lúc đầu người Mỹ rất bực mình về chuyện này. Nhưng khi thấy Tướng Khánh tỏ ra muốn trao quyền hành cho người Mỹ, Đại Sứ Lodge đã báo cáo về Washington rằng Tướng Khánh đã nói với ông: “Chúng tôi người Việt Nam muốn người Mỹ chịu trách nhiệm với chúng tôi chứ không phải chỉ là những cố vấn”. (We Vietnamese want the Americans to be responsible with us and not merely be advisers).

Nhưng khi đi nước cờ này, Mỹ đã gặp sự chống đối rất mạnh của Phật giáo vì hai lý do chính: (1) Phật giáo tưởng rằng Mỹ đã để cho “Cần Lao tái xuất giang hồ” vì Tướng Khánh và Tướng Khiêm vốn được coi là “con cưng của ông Diệm”. (2) Mỹ đã phá hỏng kế hoạch thành lập một chính phủ Phật giáo tại miền Nam của nhóm Thích Trí Quang. Thích Trí Quang đã nói với ông Lodge rằng “ông ta không coi Khánh như là một “Phật tử tốt” (good Buddist)!

Những trò múa rối của Tướng Khánh đã làm cho tình hình rối tung. Tướng Khánh phải đi ra ngoại quốc và một chính phủ dân sự do Phan Huy Quát làm thủ tướng và Phan Khắc Sửu làm quốc trưởng được đưa ra làm trái độn trong khi chuẩn bị cho nhóm tay sai của Mỹ trở lại nắm chính quyền.

Khi tình hình rối loạn đến một mức không còn cứu vãn được, ngày 11.6.1965 Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Phan Huy Quát ra tuyên cáo giao trả Quân Đội trách nhiệm và quyền lãnh đạo quốc gia.

Lúc đó, có 4 “candidats” thuộc nhóm “Young Turks” có thể được chọn làm lãnh đạo quốc gia là Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Hữu Có và Chung Tấn Cang. Mỹ quyết định chọn Nguyễn Văn Thiệu thay Nguyễn Khánh và đưa Trần Thiện Khiêm về làm thủ tướng. Tuy nhiên, lúc đó nhóm Thích Trí Quang đang chủ trương tạo bạo loạn để cướp chính quyền nên Mỹ phải dùng Nguyễn Cao Kỳ dẹp loạn xong mới thực hiện được.

Ngày 19.6.1965, Hiến Ước mới được ban hành. Tướng Nguyễn Văn Thiệu được bầu làm Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia (quốc trưởng) và Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (thủ tướng).

Tướng Đặng Văn Quang chỉ là một “agent” mới được CIA tuyển chọn sau này đưa vào làm phụ tá cho Tổng Thống Thiệu để theo dõi ông Thiệu.

Nhưng đau hơn cả là Tướng Dương Văn Minh, đã bị cả Đại Sứ Mỹ lẫn Đại Sứ Pháp dụ ra làm Tổng Thống trong những giờ cuối cùng của miền Nam, được nói là để thương lượng với Bắc Việt và thành lập một chính phủ trung lập ở miền Nam, nhưng thật sự là để tuyên bố đầu hàng.

CON CHỐT ĐẶNG VĂN QUANG

Bài viết về Tướng Đặng Văn Quang rất ít, mặc dầu tài liệu nói về sự lộng quyền và tham những của Đặng Văn Quang khá nhiều. Trong cuốn “Decent Interval”, Frank Snepp, trưởng phân tích của CIA tại Sài Gòn trước 30.4.1975, đã phê phán Đặng Văn Quang rất nặng. Ông nói rất tiếc là Mỹ đã biến Đặng Văn Quang thành “người giàu có và có thế lực”“trở thành những biểu tượng về tham nhũng và thoái hóa theo lối Mỹ, điều đó sau cùng đã cung cấp cho Cộng Sản vũ khí tốt nhất để tuyên truyền”. Ông lên án Đặng Văn Quang là “kẻ phản bội”. Người Mỹ đã trả cho ông nhiều tiền để lấy tin tức từ dinh Độc Lập, nhưng nhận được rất ít tin từ Quang. Nhờ các máy nghe lén gắn trong dinh Độc Lập, Mỹ mới theo dõi được các hoạt động của ông Thiệu. Ngay cả khi Thiệu họp tại Cam Ranh ngày 14.3.1975 đưa ra quyết định rút khỏi Cao Nguyên, Quang cũng không báo cho Mỹ biết. Vì thế Quang bị sa thải ngay và số phận trở thành bi thảm.

Trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng” Tướng Trần Văn Đôn nói tại miền Nam, Tướng Đặng Văn Quang đứng hàng thứ 4 sau Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm và Tổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên, nhưng trong thực tế Quang có quyền lực gần như vô giới hạn. Ngoài nhiệm vụ lo săn tin cho CIA, Đặng Văn Quang đã lợi dụng các chức vụ của mình để “kinh tài” cho ông Thiệu, trong đó có hai nghiệp vụ chính là đi thu hụi chết và buôn lậu. Quang được coi như một hung thần ở miền Nam và lúc đó chẳng ai dám động đến Quang. Khi cuộc điều tra buôn lậu bạc Việt Nam và thuốc tây... bán cho Việt Cộng đang được tiến hành, các viên chức điều tra phát hiện ra người cầm đầu đường dây là tay chân bộ hạ của Đặng Văn Quang, ngày hôm sau có lệnh phải ngưng điều tra ngay.

Trong bài “Drugs, Corruption, and Justice in Vietnam and Afghanistan: A Cautionary Tale” đăng trên New York Times ngày 27.10.2009, khi viết về chuyện tham nhũng ở Afghanistan, Merle L. Pribbenow, một cựu viên chức CIA, đã nhắc lại chuyện tham nhũng của Đặng Văn Quang ở Việt Nam như sau: “He was a paid agent of the CIA; and that he was Thieu’s “bag-man” for collecting corruption payments.”

Đài BBC ngày 21.7.2011 có phổ biến bài “Đời bi kịch của một vị tướng VNCH” do ông Đặng Văn Phú ở San Jose viết theo lối “huề cả làng” để gỡ gạc phần nào Tướng Quang, nhưng chẳng nói lên được gì. Chuyện Đặng Văn Quang quá nhiều, chúng tôi chĩ xin trích lại dưới đây một đoạn của Tướng Trần Văn Đôn nói về chuyện tham nhũng của Đặng Văn Quang:

“Lúc còn là dân biểu, chưa tham gia chính phủ tôi có một người bạn tên là Nguyễn Xích Hào. Ông Nguyễn Xích Hào có chức vụ khá quan trọng ở văn phòng Trung ương Air Việt Nam. Con ông Hào đủ điều kiện du học, nhưng sợ kẹt lời phê của ông Quang nên ông Hào nhờ tôi nói giùm với ông Quang. Tôi điện thoại yêu cầu ông Quang nếu không gì trở ngại thì phê cho họ đi cho kịp nhập học đầu niên khóa tại Mỹ. Ông Quang xin tên họ, số điện thoại, và hứa sẽ phê chuẩn. Khoảng mười ngày sau có dịp dự lễ mãn khóa trường Sĩ quan Cảnh Sát, gặp Quang tôi nhắc đến việc tôi nhờ, yêu cầu ông ấy lưu ý xét cho sớm. Ông Quang trả lời:

- Được! Được! Không có gì đâu!

Tôi về nhà, điện thoại cho ông Hào biết tin con ông ấy sẽ được phép đi. Ông Hào nói:

- Tôi cũng biết rồi! Tôi đã được giấy phép.

Mấy tháng sau, gặp tôi ông Hào nói:

- Tin cho anh biết thằng con tôi đã đi rồi! Tôi phải đưa một gạch (một triệu bạc Việt Nam) nó mới được đi chứ đâu phải dễ.”

CON BÀI THÍ NGUYỄN CAO KỲ

Nguyễn Cao Kỳ bị gọi nhập ngũ Khoá 1 Nam Định năm 1951. Ngày 23.12.1950, Nghị Định thành lập Trừơng Sỉ Quan Trừ Bị Thủ Đức ở miền Nam, và Trừơng Sỉ Quan Trừ Bị Nam Định ở miền Bắc. Khóa 1 sĩ quan trừ bị được gọi là Khóa 1 Lê Văn Duyệt đã diển ra tại 2 nơi vào cùng ngày 1.10.1951. Nguyễn Cao Kỳ đi nhập ngũ ở Nam Định, có 218 sĩ quan tốt nghiệp. Sau khi tốt nghiệp, ông được chọn đi đào tạo tại trường không quân Marrakech ở Maroc.

Trong cuộc đảo chánh năm 1963, vai trò của Nguyễn Cao Kỳ không có gì đáng nói. Vai trò của ông chỉ nổi bật khi Mỹ quyết định dùng ông làm thủ tướng để dẹp cuộc nổi loạn của Phật giáo. Để tăng thêm uy tín cho Tướng Kỳ, ngày 8.11.1965, Tướng Kỳ được mời qua thăm Nam Hàn, nơi đây ông được cấp Tiến Sĩ Danh Dự đại học Kyughui ở Hán Thành.

Tôi đã phỏng vấn Tướng Nguyễn Cao Kỳ trong 6 buổi tối liên tiếp, có anh Lê Vũ, chủ website Ký Con, quay phim thu hình. Tôi muốn tìm hiểu thêm cuộc dẹp loạn miền Trung và việc ông tranh chấp với Tướng Thiệu trong cuộc bầu cử năm 1967. Ông Kỳ đúng là ruột ngựa, có gì nói hết. Nhưng rất tiếc ông biết rất ít, những điều ông kể tôi đã biết hết rồi.

Tôi hỏi ông tại sao lúc đó Việt Nam lại đoạn giao với Pháp, ông ngập ngừng rối nói không hiểu tại sao lúc đó mình đã làm như vậy. Tôi hỏi về quyết định và kế hoạch hành quân dẹp Phật Giáo miền Trung, ông cho biết quyết định là do ông, còn kế hoạch hành quân giao cho Nguyễn Ngọc Loan!

Với chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc gia kiêm Giám Đốc An Ninh Quân Đội, Nguyễn Ngọc Loan nắm trong tay lực lượng an ninh và giải quyết các biến cố đã xẩy ra tại miền Nam. Tướng Kỳ chỉ nghe báo cáo và gật đầu mà thôi.

Tướng Nguyễn Ngọc Loan học trường Providence (Thiên Hữu) ở Huế, vừa đậu Tú Tài xong thì đi động viên, học khoá 1 Lê Văn Duyệt ở Thủ Đức, còn Nguyễn Cao Kỳ học ở Nam Định. Nguyễn Ngọc Loan được đi thụ huấn khóa phi công tại Trường Không Quân Salon-de-Provence ở Pháp.

Năm 1967, Tướng Kỳ lập liên danh với Luật sư Nguyễn Văn Lộc ra tranh cử Tổng Thống với Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Ngoài ra còn 10 liên danh khác.

Tướng Trần Văn Đôn cho biết, trong phiên họp tiền hội nghị, các tướng lãnh quyết định hai liên danh Thiệu – Kỳ phải nhập chung, Kỳ làm Tổng Thống, Thiệu làm Phó Tổng Thống. Nhưng tối đó Mỹ đi gặp một số tướng lãnh để bàn thảo và thuyết phục các tướng rằng Tướng Kỳ bồng bột, bốc đồng... không làm Tổng Thống được, nên sáng hôm sau các tướng lại quyết định Tướng Thiệu làm Tổng Tống vì lớn tuổi hơn và thâm niên hơn. Bù lại, Tướng Thiệu đồng ý giao cho người của Tướng Kỳ là Luật sư Nguyễn Văn Lộc làm Thủ Tướng. Ngoài ra, theo đề nghị của Tướng Nguyễn Đức Thắng, Hội Đồng Tướng Lãnh được thành lập do Tướng Kỳ làm chủ tịch. Hội đồng này có nhiệm vụ giám sát hành pháp. Nhưng khi đắc cử rồi, Tướng Thiệu không cần biết Hội Đồng Tướng Lãnh và nói chỉ thi hành Hiến Pháp. Tướng Thiệu tập trung mọi quyền hành nên chính phủ Nguyễn Văn Lộc chẳng làm được gì. Sau đó, Mỹ đưa Tướng Trần Thiện Khiêm về làm Bộ Trưởng Nội Vụ rồi làm Thủ Tướng thay Luật sư Nguyễn Văn Lộc.

(Xem Việt Nam Nhân Chứng, 1989, tr. 379 – 382).

Trong cuốn “Decent Interval” Frank Snepp nói rõ người được Mỹ chọn làm tổng thống “phải tuân theo chính sách của chính chúng tôi, vừa có những tay sai (agents) có chất lượng để thi hành chính sách đó.” Sở dĩ tướng Thiệu được chọn vì là “một viên tướng miền Nam bình thường và coi như phi chính trị (modest, supposedly non-political)”. Frank Snepp cho biết Mỹ đã “củng cố bằng mọi giá chính phủ Thiệu, để cho nước Mỹ có thế rút quân ra khỏi Việt Nam mà không sợ nổ ra một cuộc khủng hoảng chính trị mới”.

Với Tướng Kỳ, Frank Snepp viết: “Đại sứ Bunker không hề lo sợ về Kỳ và phe cánh của Kỳ. Dần dần, ông gạt được họ ra và chỉ nói về những vấn đề chính trị với Thiệu mà thôi. Một “cú ân huệ” (coup de grâce) đã đến với Kỳ trong cuộc tấn công của Cộng Sản năm 1968 khi một số trong các đồng minh thân tín đầy quyền lực của ông ta bị giết.”

Đó là một thái độ rất phủ phàng của người Mỹ đối với Tướng Kỳ, Tháng 6 năm 1968 tôi đang ở Washington và thường đến chơi với Tướng Nguyễn Chánh Thi. Một buổi sáng, ông kêu điện thoại cho tôi rất sớm và bảo tôi qua ăn sáng nói chuyện, Khi tôi vừa qua, ông vứt tờ Washington Post cho tôi và nói: “Tướng lãnh mình làm ăn như vậy đó, chẳng còn ra thể thống gì”. Tôi xem và thấy có bài loan tin Tướng Kỳ buôn thuốc phiện lậu. Tôi xem xong và nói với Tướng Thi: Chuyện này không có đâu. Mỹ muốn loại Tướng Kỳ nên nói như vậy. Trước đây Trung Tướng có đau mũi đâu, thế mà họ loan tin Trung Tướng đau mũi và bắt đi Hoa Kỳ chửa bệnh. Tướng Thi suy nghĩ một lúc và nói: “Anh nói đúng!”. Ngày 7.5.1968, khi đang chỉ huy hành quân ở khu đường Tự Đức, Đa Cao, Tướng Nguyễn Ngọc Loan bị cộng quân bắn trọng thương, gảy cả hai chân, con đường sự nghiệp của Tướng Kỳ và Tướng Loan coi như chấm dứt từ đó.

Ra hải ngoại, cuộc sống của Tướng Kỳ đã được đàn em và những người thân tín của ông mô tả khá đầy đủ. Ông chỉ tham gia vào chính trị khi lấy bà vợ thứ ba là bà Lê Hoang Kim Nicole, một người đàn bà được báo chí mô tả là “người buôn tổng thống”.

Trong những lần ngồì nói chuyện riêng với ông, tôi đã phân tích cho ông thấy, dù đối đầu với CSVN bằng chiến tranh lạnh hay bằng “diễn biến hòa bình”, người Việt quốc gia cũng đều bị Mỹ xử dụng như công cụ, mình chẳng làm được gì đâu. Ông cũng đồng ý với tôi như vậy, nhưng tướng quân khó “qua ải mỹ nhân”.

Bà Kim đã dẫn ông về Việt Nam dưới chiêu bài “sứ giả cho sự hoà giải và kết hợp đại đoàn kết dân tộc”, nhưng trong thực tế là đi làm “affair”. Bước đầu là đưa hai tập đoàn Andy Dye và Three về Việt Nam thiết lập sân golf ở khu du lịch Tuần Châu, Quảng Ninh, sau đó vận động mở sòng bài, v.v.

Dĩ nhiên, báo trong nước khai thác ngay sự ngây thơ của Tướng Kỳ để chơi đòn phản gián. Báo Tuổi Trẻ và báo Thanh Niên đã phỏng vấn ông tại khách sạn Sheraton ở Sài Gòn vào cuối năm 2004, và đăng lại trên hai tạp chí này. Căn cứ vào các bài phỏng vấn đó, các báo khác đưa ra những lời bình luận rất nặng nề, như Tướng Kỳ nói “Chúng tôi là những kẻ đánh thuê” hay “Quân đội miền Nam, không có ai đáng giá cả, kể từ ông Nguyễn Văn Thiệu...”, v.v.

Đọc những lời này ông Kỳ đã viết một lá thư yêu cầu báo Thanh Niên cãi chính, trong đó ông nói: “Chưa bao giờ và sẽ không bao giờ tôi lại căn cứ vào một số ít phần tử xấu để mạ lỵ cả một tập thể to lớn đã từng chia xẻ ngọt bùi với tôi, mà tôi biết về họ một cách đầy đủ và tường tận.” Ông cho rằng “người viết bài báo trên quá ấu trĩ, không đủ tư cách, không đủ hiểu biết để đề cập đến một lãnh vực hết sức hệ trọng và tế nhị có liên quan đến một giai đoạn lịch sử của dân tộc”.

Chẳng có báo nào trong nước đăng bài cãi chính của ông. Ở hải ngoại tôi chỉ tìm thấy trên DCVOneline ngày 24.4.2005. Ông Kỳ vốn bạo mồn bạo miệng, nên khó mà biết chuyện gì đã thật sự xầy ra. Dĩ nhiên, người Việt chống cộng vốn tự xưng là “đi guốc trong bụng cộng sản”, đã chụp lấy ngay và “dạy cho ông Kỳ một bài học”.

NHÌN CON BÀI MỸ CHỌN

Nếu so sánh ông Kỳ với ông Thiệu, chúng tôi thấy hai ông đều yếu kém như nhau: Cả hai biết rất ít về cả chính trị lẫn quân sự, không có tầm nhìn chiến lược và không biết làm việc theo phương pháp khoa học.

Nhưng ông Kỳ hơn ông Thiệu là luôn hành động theo quyết định của tập thể. Mọi quyết định quan trọng đều được đưa ra ban tham mưu và ban cố vấn bàn rồi mới quyết định phải hành động như thế nào. Ông Kỳ không sợ Mỹ. Nhưng ông Kỳ có khuyết điểm nặng là không theo sát việc thi hành, để đàn em muốn làm gì thì làm.

Ông Thiệu trái lại, luôn bị ám ảnh bởi cái chết của ông Diệm mà ông là một trong những nguời có trách nhiệm chính, nên luôn sợ bị Mỹ giết. Có nhiều khi ông tranh luận với Mỹ rất gay cấn nhưng cuối cùng ông cũng làm theo ý họ.

Ông Thiệu lại có thói quen suy nghĩ và hành động theo cảm tính, hỏi ý kiến chỉ để lấy lệ, mọi chuyện đều do ông quyết định theo ý nghĩ riêng của mình, không cần biết tình trạng thật sự đang diễn biến như thế nào. Ông lại thường tìm cách tránh né trách nhiệm bằng cách đưa ra những chỉ thị mập mờ và nếu thất bại sẽ đổ trách nhiệm cho thuộc cấp.

Lúc 2 giờ chiều ngày 7.9.1963, Đại Sứ Cabot Lodge đã gởi cho Bộ Ngoại Giao một công điện kể lại lời ông Ngô Đình Nhu đã nói với ông như sau:

Tôi báo động về những gì sẽ xẩy ra trong Quân Lực. Nếu tôi ra đi, Quân Lực sẽ nắm chính quyền. Bọn cóc nhái của CIA và USIS này sẽ phá hoại nỗ lực chiến tranh.”

Lời tiên báo này đã trở thành hiện thực. VNCH có một quân đội thiện chiến, có tinh thần chiến đấu cao, được trang bị đầy đủ, nhưng đã bị thất trận một cách nhanh chóng vì những tướng mà người Mỹ đưa ra lãnh đạo họ là những thành phần thiếu khả năng, thiếu tinh thần trách nhiệm, chỉ biết nhận viện trợ và thi hành chính sách của Mỹ.

Ngày 26.7.2011

Lữ Giang

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét